PHƯƠNG PHÁP VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 600 CHỮ
I. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
1. Đối tượng nghị luận
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm hồn… của con người. Các tư tưởng, đạo lí đó thường được đúc kết trong những câu tục ngữ, danh ngôn, ngụ ngôn, khẩu hiệu hoặc khái niệm. Ví dụ: Uống nước nhớ nguồn, Trung thực, Khiêm tốn, Nhân ái, Không có gì quý hơn độc lập tự do…
2. Những điểm cần lưu ý trong đề bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
Vấn đề tư tưởng đạo lí có thể hoàn toàn đúng, cần ca ngợi, khẳng định; hoặc hoàn toàn sai lầm, cần lên án, phê phán; cũng có thể vừa đúng vừa sai. Đề bài yêu cầu bàn về vấn đề có tính chất đúng đắn, toàn diện, có bài học sống. Đề bài nêu lên hành vi, thói quen, hiện tượng, sự việc: nêu lên suy nghĩ của mình, nêu lên quan niệm: Yêu thương là cho đi hơn nhận về. Dạng mở, không có mệnh lệnh: đạo lí Có học mới hay, có cày mới giỏi…
3. Dàn ý chung
Bước 1. Mở đoạn (khoảng 4 dòng) Dẫn dắt ngắn gọn vào vấn đề. Trích dẫn nếu cần. Nêu lên được tính cấp thiết của vấn đề. ➁ Thân đoạn (khoảng 12 – 16 dòng) Giải – Nguyên – Minh – Luận – Dụng Bước 1. Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận. → Là gì?
Yêu cầu: Chỉ giải thích những từ ngữ, hình ảnh chứa hàm ý hoặc chưa rõ nghĩa. Phải đi từ yếu tố nhỏ đến yếu tố lớn: giải thích từ ngữ, hình ảnh trước, rồi mới khái quát ý nghĩa toàn bộ vấn đề. Cần dựa vào văn bản phần Đọc hiểu để giải thích ý, tránh suy diễn.
Bước 2. Bình luận, nêu quan điểm cá nhân (thấy đúng, sai hay cả đúng cả sai). Lý giải cho quan điểm đó. → Tại sao?
Yêu cầu: Phân tích, chia tách tư tưởng đạo lí thành các khía cạnh để xem xét, đánh giá, đưa ra quan điểm cá nhân rõ ràng. Lập luận bảo vệ cho quan điểm của mình, đồng thời bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề tư tưởng, đạo lí đang bàn luận. Khi bàn luận, đánh giá cần thận trọng, khách quan, có căn cứ vững chắc.
Bước 3. Minh chứng bằng các dẫn chứng, ví dụ cụ thể. → Như thế nào? Yêu cầu: Dẫn chứng cần chân thực, hợp lí, tiêu biểu, phục vụ cho việc bàn luận. Nên kết hợp các dẫn chứng sự kiện – hiện tại, trong nước – thế giới, người nổi tiếng – người bình thường, hiện tượng – con người… để cho phong phú, đa dạng và giàu sức thuyết phục. Một số cách lấy dẫn chứng phổ biến
Cách 1. Lấy dẫn chứng bằng các hiện tượng có thật hiển nhiên, không thể phủ nhận (ví dụ: thủng tầng ozon khiến bầu khí quyển bị ảnh hưởng…).
Cách 2. Lấy dẫn chứng bằng số liệu cụ thể, rõ ràng (ví dụ: thống kê con số các vụ tai nạn giao thông, các vụ ngộ độc thực phẩm…).
Cách 3. Lấy dẫn chứng bằng một ví dụ tiêu biểu, nổi tiếng, điển hình (ví dụ: thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí đã vượt lên số phận để trở thành nhà giáo ưu tú…).
Cách 4. Lấy dẫn chứng bằng lời nói của một người nổi tiếng (ví dụ: Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó…).
Bước 4. Luận bàn, đánh giá các khía cạnh của vấn đề: phê phán hạn chế, ca ngợi, khẳng định hướng tích cực… → Toàn diện chưa?
Yêu cầu: Các em học sinh nên tự đặt ra và trả lời các câu hỏi: Tư tưởng đạo lí đã đầy đủ, toàn diện chưa? Có thể bổ sung thêm điều gì? Cần xem xét từ nhiều góc độ, nhiều quan hệ để đánh giá và bổ sung cho hợp lí, chính xác, lật đi lật lại vấn đề, tránh phiến diện. Có thể đưa ra các quan điểm khác biệt nhưng phải hợp lí và thuyết phục.
Bước 5. Thực hành tư tưởng đạo lí trong thực tế: nêu bài học nhận thức và hành động. → Cần làm gì?
Yêu cầu: Bài học phải được rút ra từ chính tư tưởng đạo lí mà đề yêu cầu.
Bài học cần thành văn, dễ ghi, phải hướng tới tuổi trẻ, ứng dụng thiết thực cho thực tế đời sống, không sáo rỗng, hình thức. Nên rút ra hai bài học, một về nhận thức, một về hành động.
Bước 6. Kết đoạn (Khoảng 4 dòng)
Nêu suy nghĩ về tầm quan trọng của vấn đề đã nghị luận.
Đưa ra thông điệp hay lời nhắn gửi có giá trị.
4. Ví dụ minh hoạ
Kì thi của các em học sinh đang tới gần. Chúng tôi biết rằng các vị đều đang mong cho con mình sẽ giành được kết quả cao trong kì thi này. Tuy nhiên, xin hãy nhớ rằng, trong số các em, những người có mặt tại kì thi, có người sẽ là một nghệ sĩ, người không cần hiểu sâu về Toán. Có người sẽ là một doanh nhân, người không cần phải quá quan tâm đến lịch sử hay văn học Anh. Có người sẽ là một nhạc sĩ, người mà với họ, môn Hóa học sẽ chẳng có ý nghĩa gì nhiều. Có người sẽ là một vận động viên, người mà việc rèn luyện thể chất sẽ quan trọng hơn là môn Vật lí, giống như vận động viên Schooling của chúng ta. Nếu con bạn đạt điểm cao, điều đó thật là tuyệt vời. Nhưng nếu con không thể, xin đừng làm điều đó trở thành sự tự ti và nhấn chìm con. Hãy nói với con rằng: ôn thi một môn, đó chỉ là một kì thi. Con được sinh ra trên đời cho những điều lớn lao nhiều hơn thế. Hãy nói với con rằng, dù điểm số của con là bao nhiêu, cha mẹ vẫn yêu con và không hề phán xét. Xin hãy làm như vậy, và nếu cần có được một điều ước, hãy cho con xem mình chinh phục thế giới. Một kì thi hay một điểm số kém sẽ không thể gạt bỏ đi những ước mơ và tài năng bên trong của con. Và cuối cùng, xin đừng nghĩ rằng chỉ có kĩ sư hay bác sĩ mới là những người hạnh phúc duy nhất trên thế giới này.
(Trích “Bức thư kì thi của thầy hiệu trưởng Singapore gửi phụ huynh khiến nhiều người phải suy ngẫm”, nguồn: kenh14.vn, ngày 26/8/2016)
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của Anh (Chị) về ý kiến của thầy Hiệu trưởng: “Xin đừng nghĩ rằng chỉ có kĩ sư hay bác sĩ mới là những người hạnh phúc duy nhất trên thế giới này.”
Hướng dẫn làm bài
Giải thích: Bác sĩ, kĩ sư là những người tri thức có trình độ văn hóa chuyên môn cao, có kiến thức chuyên sâu, được mọi người và xã hội xem trọng. Hạnh phúc là trạng thái sung sướng, vui vẻ, thoải mái, sảng khoái vì cảm thấy hoàn toàn được ý nguyện. Câu nói của thầy Hiệu trưởng muốn khẳng định: trên thế giới này với những giá trị đạt được lớn hơn cả của tri thức.
Phân tích và chứng minh: Hạnh phúc đôi khi rất bình dị, đến từ những điều bé nhỏ, giản dị trong cuộc đời chứ không nhất thiết có được khi phải đạt được những bậc thang tri thức hay danh vọng xã hội. Sống một cuộc đời ý nghĩa, sống cống hiến, làm nhiều việc tốt cho cộng đồng… cũng là hạnh phúc.
Bàn luận và mở rộng: Người hạnh phúc nhất là người mang hạnh phúc đến cho nhiều người nhất. Được là chính bản thân mình; sống chân thành với đúng sở trường, ước mơ; biết phát huy cao độ năng khiếu bản thân. Biết đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ người khác. Phê phán những quan niệm lệch lạc: áp đặt chủ quan khi chỉ về hạnh phúc hoặc lối sống thờ ơ, phó mặc, không có ước mơ, không biết kiến tạo niềm vui.
Bài học nhận thức và hành động: Cần hiểu thấu đáo, đúng đắn về hạnh phúc để sống hạnh phúc và giúp người khác sống vui vẻ. Năng nổ, trân trọng những niềm vui bình dị quanh mình; phải biết sống, khám phá và hành phúc chân chính và bền lâu.
II. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
1. Đối tượng nghị luận
– Đề tài nghị luận là các hiện tượng đời sống đáng được suy nghĩ trong cuộc sống hằng ngày, nhất là các hiện tượng liên quan trực tiếp đến tuổi trẻ và có ý nghĩa đối với xã hội.
– Các hiện tượng này có thể có ý nghĩa tích cực như: ý chí, nghị lực, tình yêu thương…
Đồng thời cũng có thể là những hiện tượng tiêu cực cần phê phán như: sự lười nhác, những thói quen xấu, tham nhũng…
2. Những điểm cần lưu ý trong đề bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống
– Có sự việc, hiện tượng cần ca ngợi, biểu dương.
– Có sự việc, hiện tượng không tốt, cần lưu ý, phê phán, nhắc nhở.
– Có đề không cung cấp nội dung sẵn, mà chỉ gọi tên, người làm bài phải trình bày, mô tả sự việc, hiện tượng đó.
– Mệnh lệnh trong đề thường là: nêu nhận xét, nêu ý kiến, nêu suy nghĩ của mình, bày tỏ thái độ, trình bày suy nghĩ…
– Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống thường có ba loại nhỏ:
– Trình bày suy nghĩ về một hiện tượng trong đời sống xã hội: như nghị lực, ý chí, tình yêu thương…
– Trình bày suy nghĩ về hai hiện tượng trong đời sống xã hội trái ngược nhau: như thất bại và thành công, cho và nhận… Loại này cần xem xét quan hệ giữa hai hiện tượng.
– Từ một hiện tượng thiên nhiên, trình bày suy nghĩ về đời sống xã hội như: Giữa một vùng khô cằn sỏi đá, cây hoa dại mọc lên và nở những đóa hoa thật đẹp; câu chuyện hai biển hồ ở Palestine… Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng trên.
3. Dàn ý chung
a) Mở đoạn (khoảng 4 dòng)
– Dẫn dắt gọn gàng vào hiện tượng.
– Nêu luận thái độ đánh giá chung về hiện tượng đó.
b) Thân đoạn (khoảng 13 – 16 dòng) Thực – Nguyên – Thái – Biện – Liên
Bước 1: Thực trạng: Các biểu hiện cụ thể trong cuộc sống của hiện tượng được nêu → Như thế nào?
– Có thể nêu mối quan hệ của hiện tượng này với ngữ liệu phần Đọc hiểu.
– Nêu những ví dụ, minh chứng cụ thể, chi tiết và chính xác.
– Nếu nó tốt, biểu dương hoặc khuyến khích.
– Nếu không rõ thì tuyệt đối không được ghi sai lệch thông tin, làm giảm tính thuyết phục của bài viết.
Bước 2: Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên (Khách quan và chủ quan) → Do đâu?
– Nguyên nhân của hiện tượng xã hội bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, nguyên nhân sâu xa và trực tiếp.
– Nguyên nhân đưa ra cần hợp lý, chính xác.
Bước 3: Nêu đánh giá, nhận định về mặt đúng – sai, lợi – hại, kết quả – hậu quả, bày tỏ thái độ biểu dương hay phê phán → Thái độ như thế nào?
– Thái độ đánh giá khách quan, rõ ràng.
– Có thể nêu những cách đánh giá mang màu sắc cá nhân, nhưng phải thuyết phục và hợp lý.
Bước 4: Biện pháp khắc phục hậu quả hoặc phát huy kết quả → Làm gì?
– Biện pháp đưa ra cần thiết thực, khả thi, không chung chung, trừu tượng.
– Biện pháp bao gồm cả biện pháp của xã hội – cơ quan Nhà nước – cá nhân; biện pháp cả về thức – hành động.
Bước 5: Liên hệ bản thân, rút ra bài học nhận thức và hành động cho mình → Bài học gì?
– Bài học cho bản thân phù hợp với quan điểm, thái độ cá nhân nêu trước đó.
– Cần nêu hai bài học: một bài học nhận thức, một bài học hành động.
c) Kết đoạn (khoảng 4 dòng)
– Nêu suy nghĩ về tầm quan trọng của vấn đề đã nghị luận.
– Đưa ra thông điệp, hay lời khuyên cho mọi người.
– Nêu suy nghĩ về sự thay đổi của hiện tượng xã hội đó trong tương lai.
4. Ví dụ minh họa
“Dẫu trời nói, dẫu cực khổ thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đại đức mới ngồi ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rách đông lạnh tức nhức lay dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong. Dân khôn mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý! Chẳng những thế mà thôi, một người làm quan mọi nhà đều có phước; dầu tham, dầu nhũng, dầu vô vết, dầu rửa tội của dân thế nào cũng không ai phẩm bình; dầu lấy của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai. Người ngoài thì khen đó, người nhà thì đua hùa oan, khiến những kẻ hám lợi mới phải quý không đưa đến vạn dân trường đạo được!”
(Phan Châu Trinh, “Về luân lý xã hội ở nước ta”, Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 86 – 87)
Hướng dẫn làm bài
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Dẫu tham, dầu nhũng, dầu vô vết, dầu rửa tội của dân thế nào cũng không ai phẩm bình; dầu lấy của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai.”
Mở đoạn:
– Tham nhũng thì thời nào chẳng có, ở nơi nào, nước nào chẳng có. Vương Ông và Vương Quan muốn thoát cảnh tù đày phải đút lót quan lại: Có ba trăm lạng, việc này mới xong (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Tam Nguyên Yên Đổ – Nguyễn Khuyến có câu nói về chuyện “công lí đồng tiền” thật nhẹ nhàng mà sâu sắc:
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Đời trước làm quan cũng thế à!
– Trích dẫn ý kiến.
Giải thích
– Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã giải thích từ “tham nhũng”, như sau: Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của dân.
– Không ai phê phán bị lạ sự bỏ mặc biết mà không lên tiếng.
a. Thực trạng
– Đã tham ô, tham nhũng đang là một hiện tượng, một vấn đề nóng mà cả thế giới phải quan tâm.
– Nó xảy ra hầu hết ở mọi quốc gia và cấp ngành trong xã hội.
– Hiện thời ngày càng tinh vi, kĩ xảo cao.
Phân tích và chứng minh
– Nếu thế giới có căn bệnh thế kỉ không có thuốc đặc trị là HIV/AIDS thì ta cũng có thể xem bệnh tham nhũng cũng giống như căn bệnh thế kỉ kia.
b. Nguyên nhân
– Điều đáng buồn là nó lại xuất phát từ những quan chức cấp cao của nhà nước đến các tầng lớp thượng lưu.
– Ngay cả trong một cộng xưởng nhỏ bé cũng xuất hiện vấn đề tham ô.
c. Hậu quả
– Lương tâm và đạo đức biến chất.
– Tham nhũng – nó như một con vi rút len lỏi vào từng ngóc ngách, hơi thở trong cuộc sống con người.
Bàn luận và đánh giá
– Cái ý nghĩ điên rồ rằng phải có tiền mới được sung sướng, phải có tiền mới khẳng định được bản thân đã ăn sâu vào tiềm thức, khiên bố bóng chốc trở thành kẻ tham ô, tham nhũng lúc nào không hay.
– Để chấm dứt nạn tham nhũng thì không thể nói nhẹ nhàng, giải quyết nhanh chóng, làm điên đảo tài chính – kinh tế và giết chết dần lành trong cơn túng quẫn tột cùng.
Bài học nhận thức và hành động
– Chúng ta biết đây là vấn đề nan giải, còn tồn tại lâu. Nhưng nếu chúng ta cứ ngồi đây mà nói theo cái kiểu chỉ biết nói mà không biết làm thì sao thay đổi được.
– Khẳng định tầm quan trọng của vấn đề.
– Liên hệ bản thân.
– Đề xuất sáng kiến.